TRUẤT
PHẾ BẢO ĐẠI
VÀ KHAI SINH
ĐỆ NHẤT CỘNG HOÀ
KƯ
ỨC 50 NĂM SAU
“Hăy
để cho những người chết
chôn
những người chết!”
(Phúc Âm)
Đến nay một số
sử liệu giải mật ngoại quốc và nhiều
hồi kư cuả tác giả Việt có đề cập
đến hai ngày trọng đại trong lịch sử đất
nước chúng ta: Ngày 23.10.1955 Hoàng đế Bảo
Đại bị truất phế và ngày 26.10.1956, ban hành
bản Hiến Pháp Việt
Trường
hợp dẫn đến quyết định truất
phế Bảo Đại.
Hoàng
tử Vĩnh Thụy (hay mệ Vững trong hoàng tộc),
sinh ngày 22.10.1913 tại Huế và mất ngày 31.7.1997 tại
Paris, hưởng thọ 83 tuổi, là con trai duy nhất
của vua Khải Định và vị Hoàng đế chót
của triều Nguyễn Gia Long. Cuộc đời chính
trị của ông có thể chia ra thành ba giai đọan: 1)
Hoàng đế , 1932-1945. 2) Quốc trưởng, 1949-1955, và
3) Lưu vong, 1955-1997. Khi vua Khải Định băng hà
năm 1925 th́ Hoàng tử Vĩnh Thụy được
12 tuổi, đang du học tại Pháp dưới
sự chăm sóc của vợ chồng cựu Toàn
quyền Charles. Ông trở về VN dự lễ đăng
quang, lên ngôi dưới danh hiệu Bảo Đại, xong trở
qua Pháp tiếp tục việc học, đến 1932 mới
về nước chấp chánh. Từ 1925 cho đến
1932, công việc triều chính giao cho một Hội
Đồng Nhiếp Chính. Hội đồng này
được thay thế bởi một Cơ Mật
Viện trong đó ông Ngô Đ́nh Diệm giữơ chức
Thượng thư Bộ Lại và Phạm Quỳnh làm
Ngự Tiền Văn Pḥng.
Nhựt đảo chính Pháp
tại Đông Dương ngày 9.3.1945. Bảo Đại cho
thành lập chính phủ Trần Trọng Kim ngày 16.4.1945 theo
lời yêu cầu của Đại sứ Yokoyama và tuyên
bố hủy bỏ tất cả các Hoà ước bất
b́nh đẳng kư với Pháp năm Nhâm Tuất 1862, Giáp
Tuất 1874, Quư Mùi 1883 và Giáp thân 1884. Nhựt hoàng
đầu hàng vô điều kiện ngày 15.8.1945, thủ
tướng Trần Trọng Kim từ chức. Hai hôm sau,
ngày 17 tháng 8, Việt Minh (tức Mặt trận VN
Độc lập Đồng Minh) biến cuộc biểu
t́nh lối 20.000 người được Tổng
hội công chức phát động trước Nhà Hát
Lớn Hànội để ủng hộ Chính phủ
Trần Trọng Kim thành một cuộc tuần hành đ̣i
Độc lập. Lần đầu tiên lá cờ
đỏ sao vàng xuất hiện. Khâm sai Phan Kế Toại
rút lui, nhường chỗ cho một Ủy ban Nhân dân
tạm thời, không nêu rơ danh tánh các thành viên. Ngày 19 tháng 8,
Việt Minh cướp chính quyền trong một cuộc
binh biến mà chúng huênh hoang gọi là cuộc Cách Mạng
Tháng Tám hay Tổng Khởi Nghĩa.
Trường hợp dẫn
đến sự thoái vị ngày 25.8.1945 được
chính vua Bảo Đại kể lại trong quyển
hồi kư tiếng Pháp “Le Dragon d’Annam” (nxb Plon,
1- Bảo Đại và các
đảng phái quốc gia không có một phương
tiện thông tin đại chúng nào trong tay và hoàn toàn mù
tịt về những biến chuyển thế
giới ngoài Việt
2- Sự kiện nêu trên tạo
ra một khoảng trống chính trị vô cùng có lợi
cho Việt Minh. Bảo Đại than phiền, nơi
trang 118-119 của hồi kư, các lănh tụ trong khối
đồng Minh, từ Truman, De Gaulle, Quốc vương
Anh cho đến Tưởng Giới Thạch, không một
ai để ư trả lời thơ xin ủng hộ
của ông trong khi phía CS được vơ trang và đă
bắt liên lạc với các cơ quan t́nh báo Mỹ, Pháp và
Hoa. Bảo Đại viết: “Tôi không huy động
được quần chúng, các người thân
cận của tôi đều ẩn trốn hay âm mưu
chống tôi. Trần Trọng Kim và các Tổng
trưởng biến mất tất cả. Tôi cô đơn
trong một thủ đô chết. Mọi việc có vẻ
thuận lợi cho CS như một phép lạ. Sự thành
công không thể chối căi của họ có phải là
dấu hiệu họ nhận được một thiên
mạng, mandat du ciel, hay không? Tôi phải rút lui, như
họ đ̣i hỏi. CS muốn làm cách mạng (révolution).
Tôi sẽ thực hiện điều này không đổ máu.
Bằng một cuộc tiến tŕnh chính
trị (évolution politique)” (trang 119)
Với tinh
thần chủ bại ấy, Bảo Đại sẵn
sàng đầu hàng. Ngày 22.8.1945, Trưởng ty Bưu
Điện Huế mang tŕnh ông một điện tín
ngắn gởi từ Hànội của một “Ủy ban
đaị diện các đảng phái và quần chúng yêu
nước” kêu gọi nhà vua trao quyền cho Nhân dân.
Bảo Đại chưa từng gặp một lănh tụ
Việt Minh nào nhưng tin nơi “tính cách chân thành không
chối căi” của tối hậu thơ (trang 118) .
Bảo Đại gởi hai cộng sự viên duy nhất
c̣n lại là Hoàng thân Vĩnh Cẩn và Chánh văn Pḥng
Phạm Khắc Hoè ra điều tra ngoài Thành Nội,
họ trở về tay không. Với sự giúp đỡ
của Vĩnh Cẩn, Bảo Đại liền thảo
một điện văn trả lời mời Ủy ban
gởi gấp đại diện về Huế để
làm lễ trao quyền. Bảo Đại viết: “Tôi cho phóng thông
điệp này vào không trung như thảy một ve
chai ra biển rộng.” Sáng 25 tháng 8, Trần Huy
Liệu và Cù Huy Cận xuất hiện, tuyên bố
đại diện chủ tịch Hồ Chí Minh, để
nhận ấn kiếm do Bảo Đại trao lại
tại Điện Kiến Trung, sau khi nhà vua tuyên bố
vắn tắt “Dân vi quư. Trẫm thà làm dân một
nước độc lập hơn làm vua một
xứ nô lệ” trước một đám đông
quần chúng “bỡ ngỡ, kinh ngạc, như bị sét
đánh” (Bảo Đại viết).
3- Đa số lănh tụ các
đảng chống Cộng nhận định về sau:
Ngày 19.9.1945, Việt Minh không mạnh như ngưới
ta tưởng. Chúng thắng v́ có lănh đạo, tuyên
truyền giỏi, biết chụp thời cơ - v́ các
đảng quốc gia lừng khừng, thiếu tổ
chức và xâu xé nội bộ, mặc dù lúc đó
Đại Việt Dân chính, Việt Nam Quốc Dân
Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng
đă đồng ư thống nhất “trên nguyên tắc.” Hai
cố nghị sĩ Trần Trung Dung và Đặng Văn
Sung đă xác nhận chua cay với người viết:
Việt Minh đă phỏng tay trên cánh quốc gia một cách
dễ dàng. Đặc biệt, Bs Nguyễn Tường
Bách, cựu chỉ huy với Vũ Hồng Khanh Đệ
tam chiến khu của VN Cách Mạng Đồng Minh Hội
và VN Quốc Dân Đảng, từ Vĩnh Yên tới Lào Kay,
thố lộ với người viết: Phe quốc gia
lúc đó không biết tí ǵ về chuyện Việt Minh
tổ chức một hội nghị quan trọng tại
Tân Trào, Thái Nguyên. Họ “vẫn ngây ngô tin rằng
Nhật c̣n đủ sức chống cự một
thời gian nên không cấp tốc chuẩn bị tổng
hành động hay đảo chính!”
4. Để bào chữa quyết
định thoái vị, Bảo Đại lập luận
ông muốn tránh nội chiến và bảo vệ sự
thống nhất và dân chủ hoá đất nước sau
một thế kỷ Pháp thuộc. Một thời gian
ngắn sau, ông ra Hànội nhận chức Cố vấn
tối cao (bù nh́n) trong Chính phủ Liên hiệp do Hồ
tổ chức và cầm đầu ngày 11.11.1945 dưới
áp lực của các đảng. Đầu tháng giêng 1946,
Hồ gởi Bảo Đại “đi nghỉ mát” tại
Sầm Sơn. Một h́nh thức lưu đày. Để
có thể trở về Hànội, cựu Hoàng ngoan ngoăn
nhận chức dân biểu (bù nh́n) tỉnh Thanh Hoá trong
Quốc hội Lập hiến với 92% thăm cử tri
. Ông thú nhận không biết rơ bầu cử ngày nào, không có
bỏ thăm và cũng không hề đi vận
động bầu cử (trang 144). Chưa hết. Ngày
15.9.1946, Hồ sắp xếp cho Tổng thống
Tưởng Giới Thạch mời cựu Hoàng qua
viếng Trùng Khánh. Đây là cách tống khứ
chướng ngại vật Bảo Đại ra khỏi
VN. Bị lưu đày lần thứ hai, Bảo
Đại trôi dạt về Hồng Kông, tứ cố vô
thân, sống lang bạt với vài mỹ kim trong túi.
Giữa mùa hè 1948, Pháp làm sống lại “Giải pháp
Bảo Đại”. Một số chính khách (Lưu
Đức Trung, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Bảo Toàn,
Trần Văn Lư, Đặng Văn Sung, Trần Trung Dung..)
rủ nhau bay sang Hồng Kông tiếp xúc với nhà vua (trang
161-172).
Trong Hồi kư, dù bị lợi
dụng bỉ ổi, Bảo Đại tỏ ḷng khâm
phục Hồ Chí Minh đă đối xử với ông “
một cách lịch sự, nể trọng, thân yêu như
t́nh cha con, chẳng những luôn luôn chăm lo vấn
đề an ninh và sức khoẻ mà lại c̣n căn
dặn nên thận trọng trong việc giao dịch với
phái yếu” (nguyên văn). Vào cuối cuộc
đời, Bảo Đại viết: Tôi không nghi ngờ
bị chủ tịch Hồ lừa phỉnh, tôi tiếp
tục đóng kịch. Dù sao, tôi nghĩ ông ấy nhiệt
t́nh tranh đấu cho sự độc lập của
xứ sở. Bất chấp dĩ văng và phương pháp
của ông, tôi thủy chung ủng hộ. Xét cho cùng, tôi thích
thái độ của ông hơn thái độ của các nhà
lănh tụ quốc gia, bù nh́n thật sự trong tay Trung
quốc, Tout bien examiné, je préfère son attitude à celle des leaders
nationalistes, véritables fantoches entre les mains des Chinois (trang 139).
Cuộc sống lưu vong
của Cựu Hoàng rất cô đơn tại
Những
bí ẩn bên trong Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng
Bảo Đại đă nhân danh
chống Pháp để thoái vị và trao quyền cho CS lănh
đạo cuộc chiến kết thúc bằng trận
đánh cuối cùng tại Điện Biên Phủ ngày
7.5.1954. Oái oăm thay, chính đế quốc Pháp đă
đặt Bảo Đại trở lại trên ngai vàng
để chống lại CS Bắc Việt sau khi, tại
Hà Đông, Cao ủy Bollaert tuyên bố Pháp muốn tái đàm
với cánh quốc gia. Tháng 8.1948, Bảo Đại chỉ
định Trung tướng Nguyễn Văn Xuân thành
lập “Chính phủ Trung ương Lâm thời VN.”
Dưới sự lănh
đạo của Quốc trưởng Bảo Đại,
qua những nội các liên tiếp Nguyễn Văn Xuân,
Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn
Tâm và Bửu Lộc, Miền Nam VN rơi vào cảnh hỗn
loạn. Cuối cùng nhà vua phải kêu cứu đến chí
sĩ Ngô Đ́nh Diệm ngày 9.7.1954, mặc dù trước
đó ông Diệm đă ba lần thoái thác.
Hiệp ước đ́nh
chiến Genève kư kết ngày 21.7.1954 chia đôi VN nơi
vĩ tuyến 17. Bảo Đại gây khó khăn cho
ông Diệm bằng cách từ
Bị lấn vào chân
tường, TT Diệm phúc đáp: Hội đồng
Nội các không đồng ư để ông xuất ngọai
giữa t́nh thế rối ren của xứ sở và một
Hội nghị các Chính đảng và Nhân sĩ Quốc gia
sẽ được triệu tập ngày29.4.1955 tại
Dinh Độc Lập để cho biết ư kiến
“Thủ tướng có bổn phận thi hành lệnh triệu
thỉnh của Quốc trưởng hay không?”. Hội
nghị này gồm có 18 chính đảng / đoàn thể và
29 nhân sĩ Miền
Nhị Lang, tác giả của
quyển sách “Phong trào kháng chiến Tŕnh Minh Thế”
(nxb Alpha, Virginia,1989), kể lại: đúng 10 giờ sáng
ngày ghi trên, Thủ tướng Diệm tiến vào pḥng
họp với vẻ mặt ưu tư, tuyên bố
vắn tắt lư do, xong kiếu từ ngay, “để Quư
Ngài được tự do thảo luận”. Hội
nghị bầu Nguyễn Bảo Toàn vào ghế chủ
tọa, Phạm Việt Tuyền vào ghế Tổng thư
kư. Như đă thoả thuận với nhau từ
trước, Nhị Lang, NBToàn và HHSơn khai pháo bằng
cách đặt thẳng với Hội nghị một
vấn đề duy nhất: truất phế Bảo
Đại, khỏi bàn đến chuyện ǵ khác. Nếu
Hội nghị từ chối chương tŕnh nghị
sự này, ba đoàn thể của họ sẽ rút lui
liền. Bầu không khí cực kỳ sôi động. Bên
ngoài, lúc đó, từ cầu chữ Y, quân B́nh Xuyên pháo kích
xung quanh Dinh Độc Lập. Các tổ chức và phần
tử ủng hộ TT Diệm từ lâu tỏ ra quá khích.
Nhà báo Bùi Quang Nga, bút hiệu Văn Ngọc, vừa hô to
“Đả đảo Bảo Đại”, vừa tuột
giày, ném vào bức chân dung đồ sộ của Cựu
Hoàng treo trên vách Pḥng Khánh Tiết. Tiếp theo, nhiều nhân
vật như Vũ Văn Mẫu, Hoàng Cơ Thụy… công
kênh Nhị Lang lên vai họ để triệt hạ chân
dung này giữa tiếng hoan hô vang dội. Hội nghị
bầu ra một Ủy ban Cách Mạng, sau đổi là
Hội đồng Nhân Dân Cách mạng, rồi Hội
đồng Nhân dân Cách mạng Quốc gia, thể theo ư
kiến của một số nhân vật “ôn hoà” lo ngại
chính quyền Diệm sẽ không kiểm soát nổi khuynh
hướng cực đoan. Hội đồng này gồm
có Nguyễn Bảo Toàn (chủ tịch), Hồ Hán Sơn
(Phó chủ tịch), Nhị Lang (Tổng thư kư) và
một số ủy viên như Hoàng Cơ Thụy, Trần
Thanh Hiệp, Đoàn Trung C̣n, Hoàng Phố, Văn Ngọc, bà
Đức Thọ, Huỳnh Minh Ư, Hà Huy Liêm và Nguyễn
Hữu Khai. Cuối cùng, Hội nghị đưa ra
một bản Quyết nghị nẩy lửa, gồm ba
điểm: Truất phế Bảo Đại, giải tán
Chính phủ Diệm và ủy nhiệm chí sĩ N Đ
Diệm thành lập Chính phủ Cách Mạng Lâm thời, tổ
chức tổng tuyển cử, tiến tới chế
độ cộng hoà.
Lúc 5 giờ chiều, sau phiên nhóm
kéo dài 7 tiếng, chủ tịch Nguyễn Bảo Toàn
mời TT Diệm xuống pḥng họp nghe kết quả.
Nhị Lang viết: “Khi Thủ tướng nghe xong, tôi
thấy mặt ông tái hẳn đi. Tôi chắc ông không
ngờ Hội nghị này lại quay sang một chiều
hướng khác và lôi kéo ông đi một bước quá xa
như vậy… Thủ tướng Diệm lộ vẻ
đăm chiêu và nói bằng một giọng trầm
mặc: “Xin quư ngài cho tôi được có thời
giờ suy nghĩ kỹ về vấn đề trọng
đại này!” (trang 310).
Qua ngày 30 tháng 4, lại một
cuôc tập họp đông đảo khác tại Pḥng Khánh
tiết Toà Đô chính Sàig̣n để triệt hạ h́nh
Bảo Đại và nghe N B Toàn, H H Sơn, Nhị Lang
tường tŕnh. Tŕnh Minh Thế, Nguyễn Thành
Phương và Nguyễn Giác Ngộ xuất hiện, dân chúng
hoan hô. Một Hội Đồng Chỉ Đạo
được thành lập, gồm có ba tướng giáo
phái này, để bao trùm lên Ủy ban Cách Mạng, theo
lời đề nghị đầy tham vọng của
Nguyễn Thành Phương. Khi sáu nhân vật vừa kể
lập một phái đoàn vào Dinh Độc Lập lúc 6 giờ
chiều, để thông báo cho Thủ tướng th́
họ thấy lối 50 sĩ quan Quân đội quốc
gia có mặt ở tầng dưới và hai tướng
Nguyễn Văn Vỹ và Lê Văn Tỵ trong pḥng khách
nhỏ ở tầng trên. Trong hối kư “VN Nhân Chứng”
(nxb Xuân Thu, 1989), Trân Văn Đôn kể lại: Trưa
29.4.1955, Vỹ và Đôn đến nhà tướng Tỵ
yêu cầu trao quyền cho Vỹ theo sắc lệnh của
Bảo Đại, ông Tỵ trả lời: “Tôi sẵn
sàng nếu Thủ tướng ra lệnh”. Tất cả
đồng ư vào gặp Thủ tướng. Chỉ có Đỗ
Cao Trí đ̣i ở lại: “Các anh vô đi. Nếu có ǵ
xảy ra, tôi đến vây Dinh Độc Lập.”
Một bi kịch bất ngờ xảy ra làm đảo
lộn lịch sử đất nước: Với
sự chấp thuận của Tŕnh Minh Thế và Nguyễn
Thành Phương, Nhị Lang lặng lẽ đột
nhập vào pḥng khách, chĩa thẳng khẩu súng Colt 45 vào
người tướng Vỹ, hô to: “Dơ tay lên, không
tôi bắn!”. Vỹ hoảng hốt dơ tay khỏi
đầu. Tướng Tỵ liều mạng chạy
lại ôm lấy Nhị Lang nhưng bị gạt ra.
Nhị Lang gọi Hồ Hán Sơn, chỉ về phía Vỹ:
“Hăy bốc ga lông của ông này cho tôi!”, Sơn làm
ngay. Phóng viên Francois Sully chụp được tấm h́nh
và cho đăng vào báo Life, số phát hành tháng 7.1955. Bộ
trưởng Trần Trung Dung cấp báo với Thủ
tướng: “Cụ! Cụ! Chúng nó đang định
bắt giết ông Vỹ!”. TT Diệm vội ra kéo
Vỹ vào pḥng. Cố vấn Nhu chạy đến can gián
Nhị Lang: “Thôi đừng nóng, mấy ông tướng
đang họp bàn với cụ”
Trả lời người
viết, Nhị Lang cho biết những diễn tiến sau
đó: trong một buổi họp tiếp theo liền
giữa TT Diệm, Nhị Lang, Hồ Hán Sơn và hai
tướng Vỹ, Tỵ trong pḥng ngủ (vừa dùng làm
văn pḥng) cuả ông Diệm, tướng Vỹ cuối
cùng – để được tự do – chịu kư một
tuyên ngôn ngắn “tự nguyện từ bỏ hết
mọi quyền hành chức chưởng do Bảo
Đại ban cho và tự nguyện gia nhập hàng
ngũ cách mạng” (nguyên văn). Ngoài ra, lấy lại
được chức Tham mưu trưởng,
tướng Tỵ cũng bảo đảm “Vỹ
sẽ không làm phản”. Trong suốt phiên họp, Đỗ
Cao Trí và hai tiểu đoàn Ngự Lâm quân bao Dinh Độc
lập để gây áp lực, không ngớt kêu vào xin nói
chuyện với Vỹ. Rốt cuộc, họ êm thấm
rút lui v́ bị kềm kẹp giữa hai đối
thủ, phiá trước là toán binh pḥng vệ Dinh
Độc Lập của đại tá Vinh, phiá sau là các
đơn vị Cao Đài của Nguyễn Thành
Phương bố trí tại đường Trần Quư
Cáp và Liên Minh của Tŕnh Minh Thế phục kích ở
đường Phan Đ́nh Phùng.
Ngày hôm sau, theo Trần Văn
Đôn trong hồi kư, tướng Vỹ họp báo cho
biết Quân đội sẽ đảo chính v́ TT Diệm
bị Thế, Toàn và Nhị Lang lấn quyền. Các sĩ
quan nhóm, có mặt Nguyễn Hữu Có, Dương Văn
Đức, T V Đôn v.v... Lê Văn Tỵ hỏi: Các anh
làm ǵ đó? Vỹ đáp: Tôi đảo chính!.
Tỵ: Anh lấy ǵ để đảo chính? Vỹ:
Quân đội. Tướng Tỵ lột sao cuả
ḿnh bỏ xuống bàn: “Tôi lột lon trao cho anh đây. Tôi
không theo anh đâu!” Nguyễn Văn Vỹ và
Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó qua Cao Miên
rồi sang Pháp sống lưu vong. Điểm đáng
lưu ư là trong quyển “Le Dragon d’Annam”, Bảo
Đại rất vắn tắt, không kể lại
những chi tiết trên đây, chỉ ghi rằng ông
đồng ư cho tướng Vỹ đảo chính TT
Diệm và phủ nhận tính cách hợp pháp của Hội
Nghị Toàn Dân ngày 29 tháng 4.
Ngô
Đ́nh Diệm có sẵn sàng truất phế Bảo
Đại hay không?
Đa số các tác giả trả
lời: Không. Trừ Đỗ Mậu (“VN Máu Lửa Quê
Hương tôi” nxb Hoa kỳ 1986). Tất cả
những ai từng tiếp xúc với ông Diệm
đều nhận xét ông luôn luôn giữ thái độ khiêm
cung thành tín khi nói đến các vua chúa triều Nguyễn,
kể luôn Bảo Đại, mà ông không bao giờ phê b́nh
thiếu lễ độ. Người viết c̣n nhớ:
Sau 1956, khi ban sắc lệnh cải tổ hành chính,
Tổng thống Diệm đặt trọng tâm vẽ
lại bản đồ các tỉnh Miền Nam (thay
đổi ranh giới, đặt tên mới, tổ
chức quy chế xă, quận và đô thị v.v...) nhưng
giữ nguyên các cơ chế tại Miền Trung do các vua
chúa đặt ra, v́ cho rằng tổ chức này không
cần canh tân. Khi Bộ Nội vụ, do người
viết phụ trách, làm thủ tục tịch thu tài
sản của Cựu Hoàng, Tổng thống ra lệnh nới
tay, giúp Đức Từ Cung có phương tiện sinh
sống đầy đủ và chỉ thị cho các
tỉnh trưởng trùng tu lăng tẩm của những
đấng Tiên Đế.
Chính Nhị Lang thường xác
nhận nhiều lần với người viết
rằng Thủ tướng Diệm không hiện diện
khi Hội Đồng Cách Mạng lấy quyết
định truất phế Bảo Đại, ông Diệm
tỏ vẻ không thoải mái nhận quyền ủy
nhiệm của Hội đồng và không ngờ mọi
việc diễn tiến ngoài mọi dự tính như
vậy. Nhị Lang viết trong Hồi kư: “Cái Ủy Ban
Chỉ Đạo do sáng kiến của Nguyễn Thành
Phương đă gieo nghi ngờ trong ḷng Thủ
tướng, chính phủ càng ngày càng ác cảm với
tướng Phương và đưa Phương
đến chỗ suy bại.” Để kềm hăm
những thành phần “cách mạng quá khích”, ông Nhu gài
những cán bộ thân tín như Hà Huy Liêm, Văn Ngọc,
Nguyễn Hữu Khai và Huỳnh Minh Ư vào Hội Đồng
để gây lục đục. Mặt khác, Bộ
trưởng Thông tin Trần Chánh Thành và tướng
Nguyễn Ngọc Lễ, TGĐ Cảnh sát- Công An, áp
dụng nhiều biện pháp tạo khó dễ.
Chuyện ǵ đă xảy ra cho
các lănh tụ cốt cán trong Hội Đồng Cách Mạng
và Ủy ban Chỉ Đạo?
1. Chủ tịch Nguyễn
Bảo Toàn, đứng đầu Lực lượng Hoà Hảo
(tổ chức đông và mạnh nhất năm 1955),
từ chức, trốn qua Phi Luật Tân, rồi bị
thủ tiêu khi trở lại VN. Ông là nhân vật từng
ủng hộ Giải pháp Bảo Đại và sáng lập
viên Mặt trận Thống nhất Quốc gia với
Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam.
Cựu đại tá Nguyễn Văn Y, nguyên cục
trưởng Trung ương T́nh báo và TGĐ Công an thời
Diệm, hiện ở Virginia, quả quyết với
người viết rằng Hội đồng Quân nhân
năm 1963 vu oan ông đă giết N B Toàn. Theo ông, công tác này có
thể do nhóm Lê Quang Tung hay Dương Văn Hiếu thi
hành theo lệnh của Ngô Đ́nh Nhu.
2. Hồ Hán Sơn, gốc Hà Tĩnh,
vào Nam năm 1954, gia nhập VN Phục Quốc Hội
của Nguyễn Thành Phương, đuợc Hộ pháp
Phạm Công Tắc vinh thăng Đại tá Cao Đài, tác
giả “Nghệ thuật Chỉ đạo Chiến tranh”
từng làm say mê Tŕnh Minh Thế. Người lùn thấp,
đầu tóc bờm xờm, ăn nói ngang tàng, đă
tổ chức một lớp huấn luyện chính trị
cho các sĩ quan Cao Đài. Sau biến cố tháng 4.1955,
Sơn thất sủng, rồi bị Nguyễn Thành Phương
(lúc đó xoay qua chống N Đ Diệm) đưa ra
xử tại một phiên họp cao cấp Cao Đài
tại số 195 đường Công lư Sàig̣n, chỉ v́
Sơn đi dùng cơm với Bộ trưởng Trần
Chánh Thành, hành động coi như “đào ngũ, tư
thông với địch”. Ở tù tại Bến Kéo, Tây Ninh,
Hồ Hán Sơn bị trung úy N.N.V, bí thư của
tướng Phương, hạ sát, ném thây xuống
giếng. Theo Nhị Lang kể lại, năm 1961, H.M.H., em
ruột của Sơn, định truy tố Nguyễn Thành
Phương trước Toà án, Nhị Lang khuyên y bỏ qua
nội vụ.
3- Nhị Lang, sinh tại Quế
Sơn, Quảng Nam, tên thật là Thái Lân, xin tị nạn
tại Nam Vang cuối năm 1955 và chỉ trở lại VN
sau vụ đảo chính 1963. Đảng viên VN Quốc Dân
Đảng, rể của Nhất Linh, ông làm cố vấn
từ 1951 cho Tŕnh Minh Thế, lănh tụ nhóm Cao Đài kháng
chiến Liên Minh. Trả lời người viết, Nhị
Lang cho biết lư do phải trốn qua Cam-bốt là
để tránh sự đàn áp từ một số cơ
quan chính quyền. Đặc biệt, Trần Chánh Thành và
Nguyễn Ngọc Lễ đă vu khống ông bỏ túi trên
một triệu bạc cấp cho Hội đồng Cách
Mạng. Có một lần, Nhị Lang bị nhân viên
cảnh sát của Trần Bá Thành chận bắt, phải
nhờ Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Thinh can
thiệp mới được thả. Lư do khác là Nhị
Lang bị kẹt giữa hai lằn đạn, hai
tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương (Ṭa thánh
Tây Ninh) và Văn Thành Cao (Liên Minh kháng chiến, thay Tŕnh Minh Thế
tử trận ngày 3.5.1955) tranh dành ngôi vị, không v́ lư
tưởng. Nhị Lang cũng đă bút chiến dai
dẳng với Đỗ Mậu tại Hoa kỳ v́
Mậu tố ông cộng tác với Sihanouk và CS Mai Văn
Bộ. Theo Nhị Lang, Sihanouk đă từ chối trục
xuất ông khỏi Cam-bốt theo lời yêu cầu của
Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống
Nguyễn Hữu Châu. Năm 1970, Nhị Lang giữ vai tṛ
Tổng thơ kư trong “Ủy ban phối hợp Hành
động các Chính đảng” – một tổ chức
hữu danh vô thực – để giúp cựu chủ
tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ ra
ứng cử Phó Tổng thống trong liên danh Nguyễn Cao
Kỳ tranh với Nguyễn Văn Thiệu và Dương
Văn Minh. Một điều khó hiểu là Nhị Lang luôn
luôn ca tụng TT Diệm và Cố vấn Nhu. Cho đến
ngày ông qua đời năm ngoái ở tiểu bang
4 - Năm 1954, Giáo chủ
Phạm Công Tắc cất chức Nguyễn Văn Thành,
Tổng tư lệnh Quân đội Cao Đài Tây Ninh, và
bổ nhiệm thiếu tướng Nguyễn Thành
Phương thay thế. Phương là lănh tụ Việt
Nam Phục Quốc Hội. TT Diệm thăng cấp
Phương lên Trung tướng, đưa y vào Nội các
với chức Quốc vụ khanh v́ thế Phương
ủng hộ mạnh mẽ Chính phủ lúc đầu. Hàng
tháng, Phương lănh được một quỹ đen,
nói là để giúp quân đội Cao Đài. Phương
nuôi nhiều cao vọng. Ư đồ của Phương
lũng đoạn chính phủ bằng Ủy ban Chỉ
đạo nói trên quá lộ liễu nên gây ngờ vực.
Sau ngày Tŕnh Minh Thế tử trận, Phương mất chức
Quốc vụ khanh và ra mặt chống Diệm cay cú.
Phương ra ứng cử Phó Tổng thống, chung liên
danh với Nguyễn Đ́nh Quát chống lại Ngô Đ́nh
Diệm. Ngày 31.3.1955, khi được biết Đức
Hộ pháp Phạm Công Tắc định thay thế ông
trong vai tṛ quân sự cao nhất trong Đạo, ông
quyết định ra tay trước bằng cách “quốc
gia hoá” toàn bộ Quân đội Cao Đài, giao cho Chính
phủ. Mặt khác, ông phát động một chiến
dịch bôi nhọ Toà thánh Tây Ninh khiến Giáo chủ
Phạm Công Tắc phải cùng với Bảo Đạo
Hồ Tấn Khoa qua tị nạn tại Cao Miên. Nơi
đây, P.C. Tắc ngă hẳn về đường lối
trung lập và xây cất một thánh thất đồ
sộ, được nửa chừng th́ Sihanouk ra lệnh
phải ngưng. Đức Hộ pháp qua đời
tại Nam Vang năm 1959. Sau 1975, một nhóm tín đồ
vận động đem xác về chôn tại thánh địa
Tây Ninh.
Với cuộc trưng cầu
dân ư ngày 26.10.1955, Thủ tướng Diệm trở thành
Tổng thống. Chính quyền hạ ngón độc
thủ, cho mở ngày 15.2.1956 Chiến dịch B́nh
định Miền Đông do tướng Văn Thành Cao –
đối thủ của Phương - phụ trách,
với Bộ chỉ huy đặt ở Toà thánh Tây Ninh.
Nguyễn Thành Phương hoàn toàn thất sủng, bị
lấy lại công thự số 195 Công Lư. Cuộc
đời chính trị cuả y chấm dứt thê thảm.
Trong cảnh túng thiếu, nghèo nàn. Thân phận của tướng
Nguyễn Văn Thành tương đối khá hơn:
Năm 1955, y nhẩy qua ủng hộ Bảy Viễn, bị
Dương Văn Minh bắt sống tại Rừng Sát
với Trần Văn Ân và Hồ Hữu Tường. Thành
bị đày ra Côn Đảo, Hội đồng Quân nhân
Cách Mạng phóng thích năm 1963 và Thành được
tướng Phạm Xuân Chiểu đem về làm việc
tại Hội Cựu chiến binh VN ở đường
Trần Hưng Đạo.
5- Tŕnh Minh Thế là một anh
hùng yểu số. Đêm 6.6.1951, đại tá Tham mưu
trưởng Cao Đài Tŕnh Minh Thế bất thần “thoát
ly” với một số chiến sĩ vào rừng Bưng
Rồ, Tây Ninh, để lập chiến khu “chống
cộng, đả thực và bài phong”. Đường
lối này thích hợp với chủ trương của TT
Diệm và đắc nhân tâm hơn các giáo phái khác, phần
đông thân Pháp và ủng hộ Bảo Đại. Tuy
rất trẻ – 29 tuổi – Thế có một kinh nghiệm
khá vững về du kích chiến nhờ được
Nhật huấn luyện. Ngày 20.8.1951, một Hội
nghị đại biểu nhóm tại G̣ Ngải và cho ra
đời “Mặt trận Quốc gia Kháng chiến VN”.
Trong số người tham dự có Vũ Hồng Khanh, Xuân
Tùng, Trần Văn Văn, Nguyễn Xuân Chữ, Đỗ
Đ́nh Đạo… Quân đội Quốc gia Liên Minh,
gọi tắt Liên Minh, lập hai chiến khu ở Núi Bà
Đen và Bù Lu. Mau chóng, tổ chức này gây tiếng vang
nhờ tài lănh đạo của Thế (có biệt danh “Hùm
dữ Tây Ninh”). Tŕnh Minh Thế sinh năm 1922 tại
quận G̣ Dầu, Tây Ninh, trong một gia đ́nh nông dân,
học lực chỉ đến mức primaire nhưng
rất thông minh và yêu nước nồng cháy. Toà thánh Tây Ninh
và tướng Nguyễn Văn Thành, Tổng tư lệnh
Quân đội Cao Đài, gây khó cho tập thể Liên Minh
bằng cách phong toả lương thực và cho tảo
thanh trừng phạt nhiều phen. Liên Minh có đài phát thanh
lưu động đặt tại rừng Doi Da.
Nhiều lần Pháp cho oanh tạc bằng những quả
bom nặng 500 cân Anh nhưng không phá hủy được.
Liên Minh cũng có một tuần báo lấy tên Quốc Gia
được dân chúng hoan nghênh.
Ba thành tích làm cho trùm CIA Edward
Lansdale chú ư đến Thế: vụ cho bom nổ chậm
(time bomb) gài vào hai chiếc xe Hoa kỳ trước nhà Hát
Tây và Toà Đô chính Saigon gây nhiều thiệt hại ngày
9.1.1952, vụ mưu sát thành công tướng Pháp Chanson và
Thủ hiến Thái Lập Thành tại Sadec, và vụ
bắt cóc để xử “tử h́nh treo” Trần Quang Vinh
(thân Pháp, thân Bảo Đại) mà Đức Hộ pháp
Phạm Công Tắc định bổ nhiệm để
thay thế tướng Nguyễn Văn Thành. Sau nhiều
lần viếng thăm chiến khu Liên Minh, Lansdale móc
nối cho cố vấn Ngô Đ́nh Nhu tiếp xúc thẳng
với Thế. Hoa kỳ đầu tư chính trị vào
Liên Minh là nhóm kháng chiến chống Cộng đầu tiên
tổ chức quy củ, có Trường huấn luyện
quân sự, Cục quân y, đài phát thanh, xưởng đúc
súng v.v...
Ngày 31.1.1955, Thủ tướng
Diệm đích thân đến Ḷ G̣, Tây Ninh, gần căn
cứ Bầu Gơ của Liên Minh, mời Thế về
hợp tác – sau 5 năm ở chiến khu - theo những
điều kiện thỏa thuận giữa Nhu và Thế.
Ngày 13.2.1955, một buổi lễ long trọng
được tổ chức tại đại lộ
Nguyễn Huệ Sàigon, trước sự hiện diện
của đầy đủ ngoại giao đoàn, để
trên 8.000 quân Liên Minh gia nhập Quân đội Quốc gia.
Thế nhận từ tay Thủ tướng mũ nón và
ngôi sao Thiếu tướng. Trước ngày về hợp
tác, Thế làm một cú ngoạn mục gọi là quà sơ
kiến, một món quà có lẽ làm hai ông Diệm, Nhu khá
bỡ ngỡ: bắt giữ (và thu âm lén) Bs Phạm Hữu
Chương, Tổng trưởng Xă hội, v́
Chương thừa dịp viếng Tây Ninh, đến
quyến rũ Thế bắt tay với Pháp. Hai nhân vật
nhờ móc nối với Tŕnh Minh Thế mà được
bổ nhiệm vào Nội các là Huỳnh Hữu Nghĩa (Lao
động) và Lê Văn Đồng (Canh Nông).
Ngày 28.3.1955, đáp lời
mời của Tổng thống Nam Dương Soekarno, Chính
phủ cử Tổng trưởng Kế hoạch
Nguyễn Văn Thoại, cựu giáo sư Collège de France,
hướng dẫn một phái đoàn dự Hội nghị
Á Phi tại Bandung. Có đủ mặt lănh tụ: Nehru, Chu
Ân Lai, Nasser, Sihanouk, Abdul Rhaman v.v... T M Thế xin phép tháp tùng,
TT Diệm nể t́nh chấp nhận. Cánh Nguyễn Thành
Phương gởi Hồ Hán Sơn làm quan sát viên. Tại
Bandung, Thế và Sơn tự ư – không bàn trước
nội dung với trưởng phái đoàn - thảo
một “Tờ Hịch” bằng Anh ngữ tố cáo Xă
hội chủ nghĩa. Thế đích thân ôm đi phát cho
các phái đoàn trong lúc trên bục, đại diện các
nước trung lập thao thao đề cao “5 nguyên tắc
sống chung hoà b́nh.” Theo Trần Văn Đôn (VN Nhân
chứng, trang 132), Nguyễn Văn Thoại đă kư vào
bản tuyên cáo chủ trương phi liên kết. Ngày
10.5.1955, TT Diệm cải tổ Nội các, Nguyễn
Văn Thoại bay chức.
Uy danh của tướng
Thế qua mặt Tổng tham mưu trưởng Lê Văn
Tỵ và trung tá Quân trấn trưởng Dương Văn
Minh, thấy rơ. Bởi thế, phần đông sĩ quan trong
Quân đội lúc đó - do Pháp để lại - không
khỏi xầm x́ ganh tị. Cũng trong thời gian này,
Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia
(gồm có Cao Đài, Hoà Hảo, B́nh Xuyên, Liên Minh và Dân Xă
của tướng Lê Quang Vinh) kư chung một bản tuyên
ngôn đoàn kết và cử phái đoàn trao cho Thủ
tướng Diệm một tối hậu thư buộc
phải cải tổ ngày 2 tháng 5 là thời hạn chót.
Được Mỹ ủng hộ âm thầm, ông Diệm
từ chối. Để cứu Chính phủ, tướng
Thế họp báo tuyên bố Liên Minh rút khỏi Mặt
trận. Bảy Viễn bắt đầu cho pháo kích Dinh
Độc Lập. Mọi việc diễn tiến mau
lẹ ngày 29.4.1955 như ghi trên. Ngày 3.5.1955, bất ngờ
Thủ tướng Diệm cử Thế tấn công B́nh
Xuyên, dù ông dư biết mối giao hảo cá nhân tốt
giữa hai bên. Phải chăng để thử ḷng?
Một thâm mưu? Tướng Thế nhận sự
bổ nhiệm đầu tiên này.
Theo Nhị Lang kể lại:
Đúng 7 giờ chiều ngày 3 tháng 5, Thế mất trong lúc
ông đích thân đứng trên chiếc quân xa đi
đầu để chỉ huy lính Liên Minh tiến qua
cầu Tân Thuận, phía Nam Sàig̣n. Một viên đạn
carbine duy nhất bắn rất gần vào lỗ tai bên
phải xuyên qua mắt trái. Thế chết tức tốc.
Người bắn viên đạn núp dưới chân
cầu không thể cách xa mục tiêu hơn 10 thước.
Khi đại úy Tạ Thành Long đem xác về căn gác
nhỏ ở đường Trương Minh Giảng th́
tṛng mắt và hàm răng giả của tướng Thế
đă bay mất. Thủ tướng Diệm và cố
vấn Nhu đ̣i đến thăm liền. Nhị Lang đề
nghị đợi đến hôm sau v́ lư do an ninh. Tờ
mờ sáng ngày 4.5.1955, hai ông Diệm, Nhu đến . Tháp tùng
có tướng Tỵ, toàn thể Nội các và Bộ Tham
mưu. Thủ tướng đầm đ́a nước
mắt, ôm gh́ thi hài tướng Thế và ngất xỉu.
Ông Nhu th́ quỳ bên giường, nắm tay người
chết, vừa kêu than ai oán “Anh Thế ơi”. Chính
phủ vinh thăng T M Thế lên trung tướng và tổ
chức lễ quốc táng ngày 6 tháng 5. Thế có mặt
tại Sàig̣n vỏn vẹn 80 ngày. Đại tá Văn Thành
Cao, tay mặt của Thế, thăng cấp thiếu
tướng. Lúc Thế tử trận, Cao về
Đồng Tháp Mười để kiếm thêm viện
binh Liên Minh v́ Thế không dùng lính quốc gia, theo lời
Nhị Lang.
Về cái chết của
tướng Thế, có nhiều giả thuyết: Sau 1975,
cựu trùm Đệ nhị pḥng Savani viết một bài
thú nhận đă chủ mưu giết Thế để
trả thù các tội ác chống Pháp. Nhị Lang, trong
Hồi kư, th́ quy trách cho Mai Hữu Xuân và cực lực
phản bác tin đồn vô căn cứ là do lệnh
của ông Nhu, để trừ hậu hoạn. Trong
nhiều đoạn của hồi kư, trang 395 và tiếp theo,
Nhị Lang than phiền Văn Thành Cao bỏ rơi Liên Minh
để thụ hưởng, khiến cho một số
sĩ quan của Thế như Trương Lương
Thiện, Nguyễn Văn Đờn, Nguyễn Văn
Phương... trở vào bưng biền đầu tháng
9.1955 v́ cho rằng chính quyền Diệm không thi hành đúng
các cam kết ngày 31.1.1955 tại Ḷ G̣. Có lẽ v́ sự
bất măn đó, họ phao đồn Cao có liên hệ
đến vụ bắn Thế. Cuối 1956, Cố
vấn Ngô Đ́nh Nhu có trao cho người viết (phụ
trách Bộ Nội vụ) một hồ sơ tố Cao
dự trữ vơ khí riêng. Tướng Cao có giải thích
với người viết đây chỉ là một
việc tư thù. Nội vụ được xếp. Cao
là sĩ quan Liên Minh duy nhất được Đệ
nhất và Đệ nhị Cộng hoà trọng dụng
trong nhiều chức vụ (kể cả Đại
biểu Chính phủ Miền Đông năm 1960, Ủy ban
Lănh đạo Quốc gia thời tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu, Pḥng nghiên cứu du kích chiến,
Bộ Tổng Tham Mưu v.v...). Sau 1975, ông bị đi
cải tạo trên mười năm. Ông là một
người thân tín của cố Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1999, qua sự giới
thiệu của ông Đặng Quang Dương, cựu Tham
mưu trưởng Quân đội Cao Đài, hiện ở
Dallas, nay trên 90 tuổi, cấp chỉ huy cũ của
Thế và Cao, người viết gặp tại Orange County
bà quả phụ Tŕnh Minh Thế, nhũ danh Nguyễn
Thị Kim (hiện ở Calgary, Canada), và đặt câu
hỏi. Bà Thế không đồng ư với Nhị Lang và có
vẻ ấm ức nhiều chuyện. Cái chết của
tướng Thế c̣n có uẩn khúc. Đặc biệt,
tướng
Cuộc
trưng cầu dân ư ngày 26.10.1955
Quyết nghị ngày 29.4.1955
của Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng khiến Thủ
tướng Diệm không thể tránh tổ chức
Trưng cầu Dân ư, dù muốn hay không. Trong thâm tâm, là
một quan lại của Triều đ́nh, ông Diệm
bảo hoàng và rất lo ngại phạm tội khi quân (crime
de lèse majesté). Nếu không bị Bảo Đại
lấn ép quá đáng, ông không bao giờ có thái độ
phạm thượng. Cố vấn Nhu, vốn không có
cảm t́nh với chế độ quân chủ, dứt
khoát hơn. Vấn đề là chụp thời cơ,
đừng để quyền lực vuột khỏi tầm
tay, chận các khuynh hướng quá khích - phía quốc gia
cũng như giáo phái đối lập - khuynh đảo
chính phủ. Trong t́nh thế nguy kịch, gần như
tuyệt vọng, Ông Diệm rất cần sự ủng
hộ của thực lực Tŕnh Minh Thế, được
Lansdale bảo đảm, nhưng ông cũng biết
Thế là một con dao hai lưỡi, một con ngựa
bất kham, có nhiều cao vọng. Thế đă cố
gắng thuyết phục ông Nhu - nhưng thất bại - vượt
Bến Hải, chiếm hai tỉnh địa đầu
Bắc Việt lập cái thế quân b́nh. Thế tánh t́nh
bộc trực, ngang tàng, độc lập. Thế có đầu
óc chính trị, tuy hợp tác với Chính phủ nhưng
vẫn giữ mối giao hảo thân t́nh với Năm
Lửa, Bảy Viễn và đặc biệt Ba Cụt. Có
lần Lê Quang Vinh và vợ là Cao Thị Nguyệt vào
chiến khu thăm Thế, hai bên có vẻ tâm đầu ư
hợp. Nhị Lang kể lại trong hồi kư, trang180:
Trước khi ra về, Ba Cụt nói với Thế: “Miền
Đông có anh, Miền Tây có tôi, chúng ta sợ ǵ lũ
cộng sản?” Tuy nhiên, theo gót “thầy dùi”
NẾU (người viết
nhấn mạnh vào chữ nếu) Thế dẹp
được B́nh Xuyên năm 1955 – một bài toán t́nh
cảm đối Thế – và NẾU Ba Cụt không bị
xử tử năm 1956 th́ chuyện ǵ xảy ra? Tŕnh Minh Thế
sẽ lên thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn
Tỵ? Bao lâu, TT Diệm (và ông Nhu) có thể kiểm soát
một Tŕnh Minh Thế ngang tàng và một Lê Quang Vinh ngang
ngược trên con đường phản loạn? Nhất
là từ 1960 Hoa kỳ bắt đầu bỏ rơi
chế độ Diệm? Hoa kỳ sẽ dùng Thế và
Vinh chống Diệm cách nào? Đó là bi kịch của
Miền Nam VN.
Lịch sử sẽ không
thể phủ nhận nhóm Tŕnh Minh Thế đă đóng
một vai tṛ quyết định chuyển Miền Nam VN
từ thời đại quân vương qua chế
độ dân chủ. Nền Đệ nhất Cộng hoà
khó thể ra đời sớm nếu thời cuộc không
diễn tiến bất ngờ như trên, ngoài mọi
ức đoán của cả Thủ tướng Ngô Đ́nh
Diệm và Hoàng đế Bảo Đại. Lịch sử
cũng không thể quên cố vấn Ngô Đ́nh Nhu là một nhà mưu lược
thượng thặng, trong cả hai nghĩa tốt và không
tốt.
Trong VN Nhân Chứng, trang
133, Trần Văn Đôn viết: Theo ông Nhu kể lại,
trước ngày trưng cầu dân ư, TT Diệm tự tay
viết một lá thư dài giải thích t́nh h́nh và mời
Bảo Đại về nước lănh đạo
nhưng Cựu hoàng đ̣i một triệu mỹ kim. Trong Le
Dragon D’Annam, trang 342, Bảo Đại cho biết
ông không đồng ư lập một chính phủ lưu vong,
không chịu «dấn thân vào một cuộc phiêu lưu
mới» và phủ nhận chính sách Ngô Đ́nh Diệm.
Cựu chủ tịch Quốc Hội Trương Vĩnh
Lễ nhận xét nơi trang 30 của hồi kư “VN, Où
est la Vérité? ” (nxb Lavauzelle, Paris 1989): Trên phiếu, dân chúng
có thể chọn trả lời một trong hai câu hỏi:
1) tôi truất phế Bảo Đại và chọn N Đ
Diệm như Tổng thống VN với sứ mạng
lập một thể chế cộng hoà hay 2) tôi không
truất phế bảo Đại và không công nhận N
Đ Diệm như Tổng thống để thành lập
thể chế cộng hoà. Kết quả: ông Diệm
thắng 98.2%.Tỷ lệ này có vẻ không hoàn toàn trung
thực, dù quần chúng mến mộ nhiệt t́nh ông
Diệm lúc đó.
Bầu
Quốc hội Lập hiến (tháng 3.1956) và ban hành Hiến
pháp Đệ nhất Cộng hoà (ngày 26.10.1956).
Quốc hội Lập hiến
gồm có 134 dân biểu thuộc bốn đảng thân
chính phủ, không có đối lập. Ủy ban soạn
thảo Hiến pháp gồm có Trần Văn Lắm
(chủ tịch), Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Vũ
Quốc Thông và Trương Vĩnh Lễ. Hiến pháp
phỏng theo các hiến pháp Hoa kỳ và Pháp. Phủ Tổng
Thống đề nghị tu chính một số
điều khoản, Quốc hội chấp thuận.
Việt
Uy quyền của Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm mỗi ngày thêm vững, ít
nữa cho đến cuối 1960. Ngày 20.7.1955, Chính phủ
Diệm tuyên bố không chấp nhận chuẩn bị
tổng tuyển cử qui định bởi Hiệp
ước Genève. Với sự cộng tác của Bộ
Nội vụ do người viết phụ trách, Hội
đồng Nhân Dân Cách mạng tổ chức một
cuộc biểu t́nh vĩ đại để đuổi
về Bắc phái đoàn Văn Tiến Dũng trong Ủy
hội Quốc tế Kiểm soát Đ́nh chiến (gồm
có Ba Lan và Ấn độ). Văn pḥng đại diện
CS đặt tại khách sạn Majestic, Bến Bạch
Đằng. Majestic bị phóng hoả, gây thiệt hại
trên 5 triệu bạc, cũng như một khách sạn khác
mang tên Galliéni ở đường Trần Hưng
Đạo. Văn Tiến Dũng và các đồng chí thoát
thân về trại của chúng ở Gia Định, bên
cạnh nhà thương Nguyễn Văn Học. Nhiều
ngày liên tiếp, đồng bào di cư, sinh viên, học
sinh... cô lập họ bằng những lời chửi
rủa thậm tệ. Điện, nước,
lương thực bị cúp hoàn toàn. Cuối cùng Ủy
Hội liên lạc với chính phủ xin bảo đảm
cho phái đoàn Bắc Việt rời Sàig̣n. Tổng Nha
Cảnh sát / Công An cho những chiếc xe nhà binh bít bùng
chở chúng lúc trời hừng sáng đến Tân Sơn
Nhứt dưới sự đả đảo vang dậy
của quần chúng. Tác giả bài này đích thân đến
phi trường kiểm soát mọi thủ tục. Vào lúc
máy bay Ủy hội sắp cất cánh, một sĩ quan CS hốc
hác, đầu đội nón cối, không mang phù hiệu,
bước đến chào người viết theo lối
nhà binh, tự xưng là thiếu tá Văn Tiến Dũng. Y
tỏ lời cám ơn giúp phái đoàn ra đi trong trật
tự.
Kết
luận
Năm chục năm thấm
thoát trôi qua. Dở lại những trang sử cũ, ḷng
buồn vô hạn. Chính trị đă đẩy xứ
sở xuống đến tận đáy vực của tang
tóc và chia rẽ, nhân danh một cuộc chiến
tương tàn do Đế quốc giựt dây. Đất
nước đă thí nghiệm đau đớn nhiều
thể chế: Quân chủ, Dân chủ và Xă hội chủ
nghĩa. Đến nay, vẫn chưa t́m ra đáp số
cho các vấn đề Chậm tiến, Tự Do và
Thống Nhất. VN vẫn là một con thuyền say, trôi
dạt không bờ, không bến. Nhóm cầm quyền ở
Hànội vẫn đui điếc trước cảnh
khổ nhục của Việt
LÂM
LỄ TRINH
Thuỷ
Hoa Trang
Ngày
9.10. 2005
Tài
liệu tham khảo:
1 – “Le
Dragon d’Annam” by S.M Bảo Đại, Plon,
2- “VN, Où Est La Vérité ?" by
Trương Vĩnh Lễ, Lavauzelle, Paris 1989
3 – «Việt Nam Nhân chứng» by
Trần Văn Đôn, nxb Xuân Thu, Californie, 1989
4- «Phong trào Kháng Chiến Tŕnh Minh Thế»
by Nhị Lang, nxb Alpha, 1989
5- «VN Máu Lửa Quê Hương Tôi» by
Đỗ Mậu. Nxb Hoa kỳ, 1986, California